VƯƠNG QUỐC NHỮNG KẺ LẠ MẶT
Phan_17
“Thế rồi, một lần vào cuối tuần chúng tôi ra biển và dùng lưới đánh cá. Chúng tôi tự làm những tấm lưới đó, rồi quăng chúng ra xa và bắt được cả một đàn cá hàng chài. Chúng tôi kéo lưới và thả một nửa số cá trở lại biển vì không định ăn nhiều cá đến thế. Rồi chúng tôi lái thuyền đi một lúc và quăng lưới lần nữa, chỉ có điều lần này lưới bị mắc kẹt vào thứ gì đó. Chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian để kéo nó lên, và khi kéo được, chúng tôi thấy một hộp gỗ rất lớn. Phần đáy lưới đã quấn xung quanh chiếc hộp đó. Chúng tôi kéo chiếc hộp lên boong. Nó nặng vô cùng. Thậm chí tấm lưới đã bị rách. Khi mở hộp ra, chúng tôi thấy một thứ rất kinh khủng. Một xác chết. Đó là xác một người nhỏ bé, có lẽ là phụ nữ, vì có tâm áo choàng nhét trong hộp. Người này đã bị cắt thành nhiều mảnh.”
“Lẽ dĩ nhiên là chúng tôi khiếp hãi. Chúng tôi chạy thuyền thẳng vào bờ và ngay lập tức gọi cho cảnh sát. Thời đó chưa có điện thoại di động đâu. Chúng tôi đã phải đợi một thời gian trước khi nhân viên cảnh sát và đội pháp y đến. Chúng tôi đặt chiếc hộp dưới bóng râm của một nhà kho ngay bên bên thuyền. Đó là một nhà kho lớn, để mở, và tất cả đứng vây quanh, mệt mỏi và đều sốc. Chúng tôi đã phải đợi cảnh sát suốt hai giờ đồng hồ rồi.”
“Trong lúc đó, một cậu trong đám con trai bị ốm. Cậu ta đã hơi ốm khi chúng tôi rời bên tàu sáng hôm đó, cộng thêm việc phơi nắng, cái nóng, và các hoạt động nên tình trạng càng tệ hơn, và cậu ta đã ngã gục. Tôi thấy cậu ta bị mất nước. Chúng tôi đưa cậu ta vào văn phòng của bến thuyền, ở đó người ta cho cậu ta uống nước và gọi xe cứu thương. Trong lúc đó, cảnh sát đến để điều tra chiếc hộp. Nhưng khi bọn họ vào trong nhà kho thì chiếc hộp đã biến mất.”
“Có ai lấy cắp nó sao ạ?” Nayir hỏi.
“Đúng thế, có vẻ là như vậy. Mặc dù chúng tôi chưa bao giờ biết được là vào thời điểm nào. Với một loạt sự cố xảy ra với cậu thanh niên kia, không một ai đã để ý đến chiếc hộp. Chúng tôi cho rằng đó chính là thời điểm nó biến mất. Vấn đề là ở chỗ chiếc hộp đó rất nặng. Có thể một người đã mang nó đi, nhưng hắn hẳn phải chở bằng ô-tô hoặc xe tải. Hai mươi con người đã sục sạo nhà kho đó suốt cả buổi tối còn lại và cả ngày hôm sau nữa, và chiếc hộp không hề ở đấy. Sự việc đó đã đặt ra các giả thuyết.”
“Một vài ngày sau, cảnh sát đã chất vấn từng người trong số tám thanh niên có mặt trên chiếc thuyền. Mỗi người đều có hồ sơ tội phạm, lẽ dĩ nhiên là vậy, nhưng tất cả đều có chứng cớ ngoại phạm. Không ai mất tích cả. Không ai có thể tiếp cận với một phương tiện có thể dùng để đưa cái hộp đi. Chúng tôi cũng đã tính đến việc tìm kiếm dưới vùng nước của cầu cảng. Có lẽ ai đó đã ném cái hộp trở lại biển. Phải mất vài ngày mới có đủ trang thiết bị để thực hiện việc này, nhưng cái hộp cũng không ở dưới ấy. Cuối cùng cảnh sát đành bỏ rơi vụ đó.”
“Nhưng ông đã tìm được một bàn tay.” Katya vừa nhắc vừa chỉ vào tấm ảnh.
“Sáu tháng sau đấy.” Sa’ud nói. “Bàn tay này xuất hiện trong con mương thoát nước ở Kandara. Rồi một bàn tay khác lại xuất hiện cách đó không xa. Đó cũng là thời điểm Mu'tazz tham gia vào vụ án này. Lúc bấy giờ Mu'tazz không phải một chuyên gia, nhưng anh ta còn trẻ và háo hức, luôn cố tỏ ra cẩn trọng. Anh ta phát hiện ra tôi cũng có một vụ án tương tự, và anh ta đã liên lạc với tôi. Chúng tôi chắp nối những bộ phận của cơ thể đó, và tôi đã tiếp nhận điều tra ở Kandara từ tay Mu'tazz. Tôi đã giải thích câu chuyện cho anh ta. Kẻ lấy cắp những bộ phận cơ thể này có vẻ đã rải chúng khắp cả Jeddah. Chúng tôi tìm thấy chiếc chân phải ở al-Balad, một phần của thân dưới ở al-Aziziya, và còn nhiều nữa. Trong khoảng thời gian chỉ một vài tuần, chúng tôi đã tìm được các bộ phận khác ở những địa điểm khác nhau. Chúng tôi không thu lại được tất cả các bộ phận bị thất lạc. Thực tế là chúng tôi chỉ tìm được mười ba phần trong số mười chín phần trong chiếc hộp đó. Tại thời điểm ấy, ai nấy đều gọi vụ án này là vụ Osiris, bởi con số mười ba đó, cho dù tôi luôn nói rằng cái xác của Osiris không hoàn chỉnh, nhưng cái tên vẫn gắn liền với nó.”
“Có chữ cái nào đi cùng một bộ phận nào đó không ạ?” Katya hỏi.
“Không, nhưng có một thông điệp được viết lại vào phút chót. Nó được viết bằng mực gần chiếc chân trái. Nó là câu trích dẫn trong kinh Koran: chúng ta đã tạo ra mọi thứ theo trật tự.”
“Ông có kiểm tra loại mực đó không?”
“Có chứ, nó là loại mực tiêu chuẩn để viết chữ đẹp, loại có thể mua ởbất cứ cửa hàng văn phòng phẩm nào.”
“Cảnh sát không đi đến giả thuyết nào hay sao ạ?” Katya hỏi.
“Thực ra, tôi chắc là cô có thể nhận thấy mức độ phức tạp của toàn bộ tình hình. Một mặt, bọn họ truy tìm tên trộm, đã đánh cắp chiếc hộp chứa bộ phận cơ thể đó và có liên can trực tiếp đến việc điều tra vụ án mạng. Mặt khác, bọn họ phải truy tìm tên giết người. Bọn họ đã bắt được một tên trộm, hoặc chí ra là họ tin như vậy. Có mười bốn nam thanh niên trong nhóm đó, nhưng chỉ có tám người lên thuyền hôm ấy. Một sĩ quan cho rằng thủ phạm chắc chắn phải là một kẻ trong số họ, chủ yếu là vì không ai khác biết về chiếc hộp này. Tôi đã tranh cãi, nhưng không có hiệu quả, rằng không thể là ai trong số bọn họ được, bởi lẽ người đó không thể mang chiếc hộp đi mà không làm tôi, Jameel, hay những thanh niên còn lại chú ý được. Với lại nhà kho đó để mở, nên ai cũng có thể lẻn vào và nhìn thấy chiếc hộp rồi quyết định đánh cắp nó. Có thể tên trộm là một kẻ cơ hội hoàn toàn lạ mặt.”
“Tuy nhiên, Đội trưởng Đội Trọng án lúc bấy giờ là Đại tá Ghamdi đã đi đến một giả thuyết duy nhất có cơ sở, đó là một kẻ trong số những thanh niên kia đã đẩy chiếc hộp rơi xuống vùng nước của bên cảng rồi hôm sau quay lại dùng lưới kéo nó lên và mang về nhà. Và quả thực, chính tấm lưới mà chúng tôi làm để phục vụ cho chuyến đi đánh cá ngày hôm sau đã biến mất.” Sa’ud ngả người ra sau và thở dài. Không khí mát rượi từ những chiếc ống dẫn phả lên khuôn mặt ông. Ông nhắm nghiền mắt lại.
“Do vậy, dựa trên cơ sở đó, cảnh sát đã bắt giữ một người trong đám thanh niên đã ở trên thuyền cùng chúng tôi chiều hôm ấy. Tên cậu ta là Ali Dossari. Cảnh sát đã nói rằng bọn họ có bằng chứng chống lại cậu ta, nhưng tôi cho rằng điều đó là không đủ. Bọn họ tuyên bố đã tìm được một phần dấu vân tay trên đồng hồ của cái xác ấy. Bọn họ đã phát hiện ra nó trùng khớp với dấu vân tay của Dossari. Tuy nhiên tôi luôn cho rằng dấu vân tay này đã ở đó trước khi cái hộp bị đánh cắp, lúc chúng tôi mở chiếc hộp ấy trên thuyền Dossari ở ngay cạnh tôi khi chúng tôi mở nó.”
“Tất cả những gì cảnh sát thực sự có chỉ là lời khai.” Ông ta nói tiếp. “Tôi nói điều đó không chắc chắn. Anh chị cũng hiểu chuyện là thế nào rồi. Dù sao thì bọn họ cũng truy tố cậu ta vì tội đánh cắp chiếc hộp và phân tán các bộ phận của cái xác khắp thành phố.”
“Còn ông lại nghĩ cậu ta vô tội?”
“Tôi không chắc là mình nghĩ gì nữa. Nhưng cuối cùng thì cậu ta đã được chứng minh là vô tội và được thả.”
“Theo ông thì chuyện gì thực sự đã xảy ra?” Katya hỏi.
“Tôi cho rằng một trong số những thanh niên tại bến tàu hôm đó đã có ý định gây rối và đã đánh cắp chiếc hộp. Tôi không biết đó là ai. Sự thật đáng buồn là chúng tôi sẽ không bao giờ biết sau đó chuyện gì xảy ra với cái hộp. Không bao giờ tìm lại nó được nữa. Có thể chính cậu thanh niên này đã phân tán các bộ phận đó, hoặc có thể là người khác. Quả thực, có thể là bất cứ ai. Dù sao điều đó cũng đã làm phá sản cuộc điều tra của chúng tôi.”
“Ông có phát hiện ra nạn nhân là ai không ạ?”
“Không. Chúng tôi bị mất chiếc đầu, cho nên không dựng lại khuôn mặt để tiếp tục điều tra được. Chúng tôi đã cố khớp dấu vân tay của nạn nhân với một số người mất tích tại thời điểm đó nhưng không thu hoạch được gì hết. Tôi hiểu đó là một vụ án khó phá, và với những chứng cứ sai lạc như vậy nó lại càng khó khăn hơn. Chính vụ án này đến giờ vẫn khiến tôi day đứt. Tôi thấy mình phải có trách nhiệm vì đã không bảo vệ được chứng cứ cũng. Nhưng tôi cũng cảm thấy thất vọng. Tôi đã nghiên cứu lại vụ án này rất nhiều lần và đều không phát hiện được gì cả. Điều tốt đẹp duy nhất mà tôi rút ra được từ đó là tôi thấy mình phải có trách nhiệm và vô cùng khó chịu bởi những việc làm của Đội Trọng án đến mức đã tự mình điều tra vụ này. Đó là toàn bộ nguyên nhân tại sao ngay từ đầu tôi tham gia vào Đội Trọng án. Tôi đã đành mười lăm năm làm việc phục vụ cộng đồng, và tôi hoàn toàn có thể nói rằng đó là quãng thời gian tuyệt vời nhất trong sự nghiệp của mình.”
Katya lĩnh hội câu chuyện một cách nhẹ nhàng. “Ông đã đóng dấu lên tất cả những bức ảnh của mình ạ?”
“Đúng vậy.” Sa’ud mỉm cười. “Ngày nay cô có thể cho rằng chuyện đó thật kỳ quặc, nhưng chúng tôi phải chịu trách nhiệm về công việc của mình - Tôi thích ghi tên và sắp xếp ngăn nắp mọi thứ.”
“Ông có vô tình có được bức ảnh nào trong vụ Osiris không ạ?” Cô hỏi. “Vụ này giống với vụ chúng tôi đang điều tra hiện giờ.”
“Có, đúng là tôi có các bức ảnh. Nhưng nếu cô đang cho rằng một trong những cậu thanh niên đó liên quan đến vụ án, thì cô đã chậm chân. Tôi đã đưa các bức ảnh đó cho một thám tử ở Trung tâm rồi.”
“Ồ.” Katya nói. “Ai vậy ạ?”
“Thanh tra Mu'tazz. Ông ta đã đến gặp tôi hơn một tuần trước.” Nhận thấy vẻ bất ngờ của Katya, ông nói thêm. “May thay tôi có giữ bộ ảnh rửa từ tất cả những bức ảnh và hồ sơ vụ án của tôi. Ông ta không cần hồ sơ - ông ta giữ bản sao hồ sơ của một số vụ bỏ ngỏ của ông ta. Nhưng ông ta muốn lấy ảnh. Chắc hẳn chúng không còn trong hồ sơ đó. Giúp tôi đứng lên nào.”
Bọn họ giúp Sa’ud đứng dậy rồi đi theo ông vào trong nhà, qua gian bếp, ở đó có một phụ nữ trẻ cuống cuồng che mặt lại, rồi họ đi lên một dãy bậc thang dài để lên tầng hai.
Katya vẫn còn đang choáng váng bởi thông tin Mu'tazz đã đến gặp Sa’ud và có vẻ ông ta không hề nói với Ibrahim. Chắc chắn ông ta đã được nghe điều gì đó từ ông già này, và nếu Ibrahim biết chuyện thì hẳn ông đã nói với cô. Chẳng lẽ lại không?
Họ bước vào một căn phòng sạch sẽ và sáng sủa. Chiếc bàn làm việc và bộ ghế bằng kim loại, vài chiếc tủ có ngăn kéo đựng hồ sơ , và hai tấm bản đồ trên tường là tất cả đồ đạc trong phòng. Sa’ud mở một ngăn kéo ở tầm thấp của chiếc tủ và rút ra một tập hồ sơ dày. Trong đó là ảnh chụp tất cả các bộ phận của cái xác trong vụ Osiris. Ông đặt chúng lên bàn. Trong khi Katya xem xét, Sa’ud đến bên tấm bản đồ cài những chiếc đinh ghim lên những địa điểm mà mỗi một bộ phận được tìm thấy dựa trên một danh sách cũ mà Nayir đang đọc cho ông.
“Mu'tazz có nói nhiều với ông về vụ án này không ạ?” Katya hỏi.
“Không nhiều lắm.” Sa’ud nói. “Chỉ là bọn họ đã tìm được một bàn tay phụ nữ bị chặt trên phố Falasteen.”
“Chúng cháu còn phát hiện một địa điểm chôn cất ngoài sa mạc có mười chín xác phụ nữ được sắp đặt tư thế theo các chữ cái mà ghép lại thành một điệp.”Katya kể và nói lại cho ông thông điệp đó.
Ông tròn mắt không tin nói điều vừa nghe. “Các cô đã phát hiện ra mười chín cái xác ngoài sa mạc sao?”
“Vâng. Và những phụ nữ đó đều bị mất tay.”
“Thế còn cách sắp xếp tại địa điếm chôn cấtthế nào?”
“Bọn họ được chôn theo hình lục giác tương tự như cái hình kia ạ.” Cô chỉ tay vào tấm bản đồ. “Ngoại trừ việc các ông chỉ tìm được mười ba phần mà thôi.”
“Tên khốn Mu'tazz.” Sa’ud nói. “Hắn không hề nói gì với tôi. Cô biết đấy, tôi nghĩ việc tôi đảm trách vụ án của hắn đã khiến hắn khó chịu, và hắn không bao giờ tha thứ cho tôi về việc đó. Thật là một con lừa già. Theo như tôi hiểu thì hắn cũng không phụ trách vụ án này phải không?”
“Đó có phải điều ông ta nói không ạ?” Katya hỏi.
“Đúng.”
“Vâng, ông ta không phụ trách vụ án này. Và cháu dám chắc rằng ông ta không hề thông báo gì với người phụ trách vụ này về việc ông ta đến đây.”
Sa’ud bật cười một cách khó nhọc.
Ông đưa cho họ một bản sao hồ sơ vụ Osiris. Ông không muốn rời xa những bức ảnh cuối cùng của vụ Osiris trong khi ông đã đưa bộ dự phòng cho Mu'tazz mất rồi. Vì vậy ông đã sao chụp các bức ảnh cho cô. Chính trong hồ sơ vụ án đã có các phân tích về dấu vân tay từ hai bàn tay và các báo cáo về mười một bộ phận khác của cái xác đã được tìm thấy. Katya có cảm giác rằng tập hồ sơ cô đã xem ở văn phòng là một bản chụp từ bản gốc của Mu'tazz.
“Cô sẽ thông báo cho tôi về tiến trình điều tra chứ, phải vậy không?” Ông hỏi.
“Vâng ạ.” Katya đáp. “Cháu sẽ báo lại với ông. Nhưng cháu xin hỏi ông thêm một điều nữa. Những thanh niên ở trên thuyền ngày hôm đó, đã có ai...?”
“Ồ, Mu'tazz nói ông ta sẽ đi hỏi chuyện bọn họ, nhưng tôi vẫn chưanghe được tin tức gì từ ông ta hết”
Khi trở lại xe, Katya lớn tiếng nói: “Em không thể tin là Mu'tazz không hề nói gì với Zahrani. Chuyện này có thể thực sự quan trọng đối với vụ án của bọn em và ông ta đang che giấu thông tin!”
“Việc này thật đáng ngờ, em có nghĩ vậy không?”
“Đúng vậy, rất đáng ngờ. Ý em không phải ông ta là tên sát nhân. Có vẻ ông ta chỉ muốn tự mình phá vụ án này?”
“Em biết rõ ông ta phải không?”
Câu hỏi được đặt ra một cách tự nhiên, nhưng cô hiểu đằng sau nó là một cái bẫy. “Em không hề biết ông ta chút nào - thực ra là em chưa từng nói chuyện với ông ta. Nhưng em nghe được nhiều chuyện từ những đồng nghiệp khác, và có vẻ ông ta là một trong những người đã bị từ chối thăng bậc nhiều lần hơn bất cứ ai, và ông ta cay cú về điều đó. Có lẽ ông ta cho rằng đây là cơ hội để phá một vụ án lớn bởi ông ta biết về vụ án trước đấy. Thậm chí có thể ông ta cho rằng mình có quyền làm như vậy.”
Không khí im lặng. Nayir đang tập trung vào việc lái xe. Lần này, mối nguy hiểm là một gã đang lái xe gần sát bên phải họ và cố giữ chiếc xe ở vị trí để Katya thấy tấm áp-phích trên cửa sổ sau xe của hắn. Trên đó có số điện thoại được in cỡ lớn và dòng chữ Tên anh là Khaled, hãy gọi cho anh nếu em thích anh! Khi Khaled nháy mắt với cô trong gương chiiếu hậu, cô không thèm đếm xỉa đến gã. Nayir hú còi và gã kia lái xe đi mất.
“Có thể Mu'tazz đã nói với Zahrani về những việc này rồi, và Zahrani chưa nói với em thì sao?” Nayir hỏi.
“Em khá chắc rằng nếu biết Zahrani đã nói với em.”
“Vậy em nói chuyện với ông ấy thường xuyên nhỉ.”
Cô có thể nói được gì đây? Vâng, hai người bọn em đã gặp nhau trong phòng vệ sinh ở tầng ba, ở đó ông ấy đã kể với em về vụ ngoại tình của ông ấy?
“Thanh tra Zahrani là người khuyến khích phụ nữ tham gia vào các đội điều tra.” Cô nói. “Và đó là một điều tốt. Anh nên nhớ chính em tìm ra mối quan hệ về tư thế của những cái xác đó.”
“A.”
“Nhờ con mắt chim ưng của anh.” Cô nói thêm.
Anh gật đầu tỏ vẻ biết ơn về lời khen tặng.
“Anh hiểu là em muốn làm nhiều hơn để phá án.” Anh nói. “Nhưng anh thấy phần lớn người tham gia phá án là nam giới.”
“Đúng vậy.”
“Và như vậy, để tham gia vào công việc đó, em sẽ phải tiếp xúc nhiều hơn với đàn ông.”
“Đúng vậy.”
“Không có đội điều tra trọng án nào chỉ toàn phụ nữ thôi sao?”
“Không có. Chỉ có nam giới, với sự hỗ trợ của nữ giới thôi.”
Anh trở nên im lặng. Cô nhìn anh một lần nữa, mong sẽ nhận ra chút yêu thương, một thứ gì đó làm dịu cảm giác lúc này giữa họ và nhắc nhở cô vì sao cô sẽ cưới anh, nhưng gương mặt anh tối sầm và khó chịu.
Chương 28
Ibrahim và Daher đang đứng nói chuyện ở hành lang với Chánh Riyadh thì Shaya sải bước đi tới với vẻ hào hứng.
“Tôi đã phát hiện ra vài điều về cái tên ông có được từ thầy phù thủy trừ tà đó.” Anh ta nói.
“Gì vậy?”
“Chúng tôi có một danh sách nhân viên làm việc cho những công ty taxi khác nhau. Tất cả những người có tên trong danh sách đều có lý lịch phạm tội và bọn họ sống hoặc làm việc gần phố Sitteen. Có tên Sheikh Hajar trong đó.”
“Tên hung thủ của chúng ta là một sheikh (1)à?” Riyadh hỏi.
(1) Sheikh là từ chung dùng để gọi các trưởng tộc, trưởng làng, học giả, lãnh tụ Hồi giáo...
“Thực ra, theo những gì tôi được biết thì hắn chưa bao giờ là sheikh.” Shaya nói. “Nhưng có điều này - trước khi làm việc cho công ty taxi, hắn đã từng là nhân viên cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ.”
Chánh Riyadh giơ bàn tay lên và Ibrahim hiểu ông định nói Đi bắt hắn về đây, nhưng Shaya ngớ ngẩn nói tiếp. “Còn nữa.”Anh ta xúc động nói. “Bố của Sheikh Hajar đã bị tù vì đâm vợ ông ta.”
“Làm thế nào anh có được thông tin đó?”
“Phân khu cảnh sát bắt hắn ta đã gửi đến một hồ sơ. Có vài vấn đề về cuộc sống gia đình thời thơ ấu của hắn được ghi trong báo cáo.
Bố của hắn là một kẻ bạo hành thật sự. Ông ta hay treo hắn lên xà nhà và dùng roi đánh hắn. Ông ta đã chết trong tù. Hajar được người bà ở Jeddah một mình nuôi nấng. Có vẻ, sau khi ông bố bị bỏ tù, người mẹ đã chạy trốn và tự vẫn. Một vài tuần sau đó, người ta tìm thấy xác bà ta ở Muscat - quê hương bà ta. Tôi đang kiểm chứng lại câu chuyện, nhưng cho đến thời điểm này tôi đã tìm cách để có được xác nhận về cái chết của bà mẹ, hình phạt bỏ tù dành cho ông bố, và cái chết của ông ta trong tù.”
“Thế còn người bà của Hajar thì sao? Vẫn còn sống chứ?” Ibrahim hỏi.
“Tôi đang tìm hiểu về điều đó.” Shaya nói.
Chánh Riyadh quay sang Ibrahim. “Tôi muốn người này được đưa đến đây ngay.”
Ibrahim hiểu thêm rằng: Tôi để anh theo vụ này bởi anh tuân lệnh tôi, và nếu anh không như vậy thì tôi sẽ tìm người khác.
“Chúng ta có thông tin gì liên quan đến việc phạm tội của hắn ta không?” Ibrahim hỏi.
“Cho dù thế nào thì cũng đưa hắn đến đây ngay.” Riyadh nói. “Tôi muốn nói chuyện với hắn. Để xem hắn nói gì về lý lịch của mình. Để biết tất cả những gì có thể biết. Hắn chưa bị bắt mà đấy chỉ là thẩm vấn thôi, các anh hiểu chứ?”
Ibrahim quyết định không tranh cãi gì.
Katya gõ cửa và Daher ra mở. Nhìn qua vai anh ta cô có thể thấy các tập hồ sơ nằm la liệt khắp phòng.
“Tôi cần nói chuyện với Thanh tra Zahrani.” Cô nói.
Daher tỏ vẻ khó chịu. “Ông ấy đang bận.”
Daher quay trở vào trong, và một phút sau, Ibrahim bước ra.
“Tôi xin lỗi vì đã làm phiền.” Cô nói. “Chiều nay tôi đã đến gặp đại tá về hưu Hussain Sa’ud. Ông ấy đã tiếp quản vụ án bàn tay bị chặt mà Tiến sĩ Becker và tôi đã tìm được trong số hồ sơ vụ án cũ hôm qua.” “Tốt lắm.”
“Năm 1989, Đại tá Sa’ud đã phát hiện được mười ba bộ phận cơ thể - không có phần đầu – đều thuộc một cái xác phụ nữ. Chúng đã bị rải khắp Jeddah này. Đằng sau nó còn là một câu chuyện dài nữa mà không kể bây giờ được. Vụ án đó được gọi là vụ Osiris. Đây là hồ sơ vụ án.” Cô đưa cho ông một bản chụp hồ sơ vụ án.
“Và cô cho rằng vụ này có liên quan đến vụ Thiên sứ sao?”
“Có khả năng đó.” Cô nói. “Các bộ phận của cái xác đã được rải khắp Jeddah cũng theo hình chúng ta đã phát hiện ngoài sa mạc. Nhưng còncó một điều nữa.”
“Là gì vậy?”
“Ban đầu, vụ bàn tay bị chặt đó là do Thanh tra Mu'tazz phụ trách. Có vẻ tuần trước Mu'tazz đã đến gặp Đại tá Sa’ud và lấy một bản chụp hồ sơ này. Trong đó bao gồm các báo cáo và ảnh chụp từng bộ phận của cái xác kia. Mu'tazz đã nói với Sa’ud rằng ông ta sẽ phỏng vấn những nghi phạm trước đây của vụ Osiris. Ông ta có nói gì với ông về chuyện đó không?”
Ibrahim chỉ trừng mắt nhìn cô.
“Tôi chỉ muốn ông biết điều đó.” Cô nói.
Chương 29
Sheikh Rami Hajar, người khách mà thầy trừ tà kia kể với họ, không phải là sheikh, như Ibrahim đã nghĩ. Hắn chỉ đơn thuần là được mẹ đặt tên là Sheikh. Ibrahim có những người anh em họ được đặt tên theo các thứ trong tuần, và ông cũng biết một cậu bạn cùng trường có anh em đều được đặt tên là Mohammed, vậy thì tại sao lại không thể tên là Sheikh chứ? Không hề gì đó là sự xúc phạm tới nhận thức thông thường khi một người đàn ông được đặt tên là Sheikh, thì phải là một ông già Bedouin hay một nhân vật tôn giáo. Hoặc có lẽ anh ta đã nghiên cứu đạo Hồi một cách nghiêm túc nên mới xứng đáng với lời xưng tụng kính cẩn như vậy.
Có vẻ như ngài Sheikh Hajar này đã dành trọn cuộc đời mình để quấy nhiễu phụ nữ. Hắn bị tố cáo lên ủy ban Bảo vệ Phẩm hạnh và Ngăn ngừa sự đồi bại những sáu lần vì hành vi đụng chạm bất chính. Khi còn là một kỹ thuật viên y tế cứu thương, hắn ta khai rằng mình mới chỉ chạm vào hai người phụ nữ trong trường hợp khẩn thiết để cứu mạng họ, nhưng đó lại không phải câu chuyện mà gia đình những phụ nữ này đã trình báo. Một người đàn ông trẻ tuổi người này là một sheikh thật - đã tố cáo Hajar quấy rối mẹ anh ta, bằng cách thò hai tay vào giữa hai chân bà và “đút ngón tay vào trong người bà” khi ở phía sau xe cứu thương. Không may là, trước tòa án truyền thống, lời nói của phụ nữ chỉ có giá trị bằng một nửa lời nói của đàn ông và do người con trai kia đã không tự mình chứng kiến hành vi này nên anh ta không đủ khả năng chứng minh tính xác tín của sự việc. Lời buộc tội đó đã bị bác bỏ, cũng như những trường hợp khác. Nhưng một người làm việc tại ủy ban nói trên đã tiếp tục tìm hiểu về vấn đề này và cuối cùng trình một báo cáo lên sở cảnh sát Jeddah nói rằng Hajar không tốt đến mức đó và cần phải được theo dõi. Cảnh sát quá bận bịu để có thể bận tâm đến một kẻ sờ mó lung tung như vậy, nhưng họ cũng buộc phải lập hồ sơ đầu tiên về Hajar.
Cuộc điện thoại tới Trăng lưỡi liềm Đỏ cho biết hắn đã bị sa thải từ năm ngoái vì có hành vi bất chính. Họ từ chối không tiết lộ hành vi đó là gì, chỉ nói rằng Hajar thích hợp với công việc không phải tiếp xúc với phụ nữ lạ mặt. Vì thế cấp trên của Hajar ngay lập tức giới thiệu cho hắn việc lái xe taxi. Sự ngớ ngẩn này có vẻ chẳng ảnh hưởng gì tới viên chức của Trăng lưỡi liềm Đỏ, người đã nói với Ibrahim: “Ít ra chúng tôi cũng có thể nói anh ta rất giỏi lái xe.”
Hajar sinh ra và lớn lên ở Oman, đã chuyển tới Jeddah cùng với bà khi mười lăm tuổi. Hắn vẫn giữ quyền công dân Oman của mình nhưng vẫn có một 'iqama, một chứng nhận định cư của Ả Rập Xê-Út, nên có thể dễ dàng tra cứu lý lịch làm việc của hắn. Hắn đã bỏ học trường y nửa chừng để làm nhân viên kỹ thuật y tế cứu thương. Sau khi rời Trăng lưỡi liềm Đỏ, hắn tìm được việc tại công ty taxi-trắng của thành phố, một dịch vụ có phần cao cấp hơn loại dịch vụ taxi- vàng, nhưng chiếc xe của hắn là một chiếc Camry Toyota cũ và không được lắp đặt công-tơ mét, nên khó theo dõi việc di chuyển của hắn trong thành phố. Hay ít ra là theo như công ty taxi đã khai báo. Lẽ dĩ nhiên hắn có điện thoại di động, và giấy phép hành nghề, nhưng không một ai biết hằng ngày hắn đi đâu. Theo như người quản lý tổng đài tại trụ sở chính của công ty cho biết, Hajar có một lý lịch lái xe trong sạch và được xem là nhân viên mẫn cán.
Hồ sơ thứ hai của cảnh sát cho biết Hajar từng bị bắt lần đầu tại một phân khu phía Tây. Hắn bị buộc tội hành hung một viên chức và có hành vi không thích hợp ở nơi công cộng. Có vẻ như một viên chức đã thấy hắn đuổi theo một phụ nữ dọc con phố lớn tiếng với cô ta, chặn đường cô ta, làm tất cả mọi cách để có thể giữ cô ta lại mà thực tế không chạm vào người cô ta. Khi viên chức kia cố ngăn hắn lại thì Hajar đã tấn công và làm gẫy tay anh ta. Hajar khai báo rằng người phụ nữ này, giống như một số phụ nữ khác cố tình làm vậy, đã thuê xe của hắn và khi đến nơi thì lại nói không có tiền trả. Thật dễ dàng đối với cô ta khi ra khỏi xe và bỏ đi. Phải bạo gan đến mức nào hắn mới dám đuổi theo một phụ nữ, nhất là khi những người xung quanh đều có suy nghĩ bảo thủ như gã viên chức đó, và khả năng bị cảnh sát tôn giáo bắt là cao hơn mức bình thường. Nhưng Hajar không sẵn lòng bỏ qua việc đó, nên hắn đuổi theo cô ta. Ngay cả khi đã bị tống giam, Hajar vẫn còn giận dữ đến mức nói rằng “những phụ nữ đó đáng bị đối xử như vậy.” Lẽ dĩ nhiên tên của người phụ nữ kia không được ghi trong hồ sơ , nhưng Hajar đã nói với cảnh sát rằng hắn thường đón khách ở Jamjoon.
Nhìn bề ngoài, Hajar có vẻ giống một kẻ gấy rối bình thường trên đường phố Jeddah, nhưng Ibrahim vẫn còn nhớ sự lo lắng không dứt của Iman Arsheedy về hắn. Những hành vi phạm tội không đáng kể đôi khi lại là dấu hiệu của những động thái khó lường hơn. Đó là chưa kể đến việc Hajar là một tài xế taxi hoạt động gần Jamjoon. Nhìn ảnh hố sơ tội phạm của hắn, Ibrahim nhận ra điều mà Arsheedy đã nói về hắn. Khuôn mặt Hajar không có nét gì đặc biệt, thậm chí là bình thường, nhưng có cái gì đó không hề thân thiện ở hắn. Đôi mắt trống rỗng, một sự trống rỗng sâu thẳm phía sau vẻ căm hờn đặc trưng của một bức ảnh phạm nhân. Đó là cái nhìn chăm chăm của một con thú và của một kẻ không hề thông minh, chứ không phải của một người từng học trường y. Báo cáo của cảnh sát cho biết hắn có mang theo người một loại thuốc: chlorpromazine. Hajar từ chối nói bât cứ gì về thứ thuốc này, nhưng bác sĩ của hắn đã xác nhận việc kê đơn là xác thực. Tìm kiếm nhanh trên Internet cho thấy chlorpromazine là một loại thuốc an thần loại mạnh.
Không may là họ không có địa chỉ của Hajar. Một số vùng phụ cận của Jeddah không có dịch vụ bưu điện, tên đường phố hay số nhà. Theo ông chủ của hắn, Hajar sống tại một trong những khu vực đó. Chính vì vậy mà lúc này Ibrahim và Daher đang ngồi trong một chiếc xe không mang đèn hiệu của cảnh sát đỗ đối diện với tổng đài hãng taxi trắng đó. Tổng đài đã gọi cho Hajar đề nghị hắn đến văn phòng để nhận phiếu chi thưởng, nhưng rõ ràng là Hajar không cắn câu bởi họ đã chờ ở đây hai tiếng rồi. Ibrahim hiểu rằng thật lố bịch khi bọn họ phải làm việc thấp kém này. Mà lại đang là cuối tuần nữa, điều đó càng khiến cho việc này không thỏa đáng chút nào. Nhưng ông đã quyết định phải làm gì đó.
Daher với tay về phía tách cà phê thứ ba trước khi lên tiếng cằn nhằn. “Đáng lẽ chúng ta có thể yêu cầu mấy tay trẻ hơn làm việc này.”
“Chúng ta có thể làm vậy.” Ibrahim đặt toàn bộ sự chú ý của mình vào những chiếc taxi và không lúc nào rời mắt khỏi chúng. “Nhưng tôi không muốn để mặc việc này cho may rủi.”
Sự thực là ông đang kiềm chế sự lo lắng. Phần lớn những người mất tích đều được tìm thấy trong vòng hai mươi tư giờ đầu tiên hoặc sẽ không bao giờ được tìm thấy nữa. Lẽ ra ông nên thôi phụ trách vụ Thiên sứ - giao nó lại cho Mu'tazz, người có lẽ xứng đáng với vị trí đó - và chuyên tâm tìm kiếm Sabria, ngay cả khi việc đó đòi hỏi cả thời gian trong giờ làm việc. Ông không biết mình sẽ giải thích thế nào với gia đình, đặc biệt là với anh trai mình, người chắc hẳn đã phát hiện ra vụ việc này rồi. Nhưng ông vẫn nên thử mới phải.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian